ỨNG DỤNG KHOÁNG TRONG CHĂN NUÔI BÒ THỊT
Gia súc ăn cỏ đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng để hỗ trợ tăng trưởng và sản xuất thịt. Để phát triển tối ưu tiềm năng chăn nuôi bò thịt, người chăn nuôi cần phải chú trọng đến chế độ dinh dưỡng. Trong đó, khoáng chất vi lượng là một trong những yếu tố quan trọng mà người chăn nuôi cần phải đặc biệt quan tâm.
Theo thống kê của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn, tỉ lệ nuôi bò thịt ở Việt Nam chỉ chiếm khoảng 8% trong khẩu phần thịt gia súc trên bàn ăn của người dân nước ta. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia trên thế giới, tỉ lệ này chiếm tới 25%, có thể thấy chăn nuôi bò thịt hiện đang là một hướng phát triển tiềm năng.
Gia súc ăn cỏ đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng để hỗ trợ tăng trưởng và sản xuất thịt. Để phát triển tối ưu tiềm năng chăn nuôi bò thịt, người chăn nuôi cần phải chú trọng đến chế độ dinh dưỡng. Trong đó, khoáng chất vi lượng là một trong những yếu tố quan trọng mà người chăn nuôi cần phải đặc biệt quan tâm.
Trong hàng chục thập kỉ qua, thức ăn thô xanh là nguồn cung cấp khoáng vi lượng chính cho gia súc ở nước ta, tuy nhiên tính hữu dụng của khoáng trong thức ăn thô xanh chỉ đạt 50%, do đó việc thiếu hụt khoáng chất là điều tất yếu nếu gia sức không được bổ sung thêm từ các nguồn khác. Theo nghiên cứu, có khoảng 10 loại khoáng vi lượng cần thiết cho gia súc bao gồm Cr, Co, Cu, I, Fe, Mn, Mo, Ni, Se và Zn. Trong đó Selen, Cu, Zn, Mn, Co và I là những khoáng chất vi lượng thường bị thiếu trong thức ăn thô xanh.
Dưới đây là bảng thay đổi nhu cầu khoáng cho bò từ 1984-2016 (Nguồn NRC)
Se: Là nguyên tố cấu tạo nên enzyme glutathione peroxidase, tham gia vào quá trình chống oxy hóa. Và Selen được biết đến là nguyên tố vi lượng bị thiếu nhiều nhất trong khẩu phần ăn của gia súc ăn thức ăn thô xanh. Khi thiếu Selen bò sẽ thường dễ bị oxy hóa stress, thoái hóa mô gây nên bệnh cơ trắng.
Cu: Là khoáng vi lượng thường bị thiếu thứ hai đối với gia súc ăn cỏ. Đồng cần thiết cho nhiều loại enzyme, phần lớn tham gia vào việc điều phối chức năng miễn dịch bình thường. Trong số các enzym phụ thuộc vào Cu này, đáng chú ý nhất là ceruloplasmin. Ceruloplasmin liên kết với gần 90% Cu được tìm thấy trong máu và được biết đến như một protein giai đoạn cấp tính chính của bò. Tuy nhiên, ở gia súc thiếu Cu, phản ứng này bị ức chế dẫn đến sự thay đổi trong phản ứng giai đoạn cấp tính bình thường, với sự gia tăng đáng kể nồng độ haptoglobin và fibrinogen. Phản ứng protein giai đoạn cấp tính là một phản ứng sinh lý bình thường của hệ thống miễn dịch bẩm sinh và được tạo ra ở gia súc để phản ứng với cả hai bệnh và tiêm chủng.
Zn: Là khoáng vi lượng thường bị thiếu thứ ba đối với gia súc ăn cỏ. Nhu cầu về Zn đối với bò thịt vẫn nhất quán ở mức 30 mg / kg DM qua các lần sửa đổi thứ sáu, thứ bảy và thứ tám của NRC. Đáng chú ý nhất là vai trò của Zn đối với sự chuyển hóa RNA và DNA, điều này giải thích mối liên hệ thường được biết đến của nó đối với sức khỏe của móng.
Crom (Cr): Là một trong những vi chất dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất của động vật nhai lại. Chromium cũng kích hoạt một số enzym và ổn định protein và axit nucleic (Anderson, 1994) Các nghiên cứu thực nghiệm đã phát hiện ra rằng Cr có thể thay đổi hiệu suất, phản ứng miễn dịch, chuyển hóa glucose và axit béo, và tình trạng chống oxy hóa ở bò.
Người chăn nuôi có thể cung cấp các nguyên tố khoáng vi lượng cho bò thông quá các nguồn như khoáng vô cơ (cacbonat, clorua,...), khoáng hữu cơ. Trong đó, khoáng chất hữu cơ đã và đang là nguồn cung cấp khoáng vi lượng thiết yếu hiện nay bởi những lợi thế đặc trưng của nó. Đặc biệt đối với thế hệ khoáng peptide chelate với công nghệ sản xuất hiện đại, tỉ lệ hấp thu và chuyển hóa cao nhờ cơ chế hấp thu chủ động đã và đang hứa hẹn thay thế những nguồn khoáng hữu cơ khác trên thị trường.
Có thể thấy đáp ứng nhu cầu khoáng vi lượng của bò thịt là rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất chăn nuôi bò ở nước ta.
Nguồn: John D. Arthington và cộng sự